Năm 1903, tỉnh lỵ tỉnh Hưng Hóa cũ được chuyễn về Phú Thọ nên tỉnh Hưng Hóa cũ được gọi là tỉnh Phú Thọ. Địa bàn tỉnh Phú Thọ khi đó gồm : phủ Đoan Hùng, các huyện Tam Nông, Thanh Thủy, Sơn Vi, Thanh Ba, Phù Ninh, Cẩm Khê, Hạ Hòa , Hạc Trì và các châu Thanh Sơn, Yên Lập. Năm 1968, tỉnh Phú Thọ hợp với tỉnh Vĩnh Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú. Tháng 11 năm 1966, tỉnh Vĩnh Phú tách ra hai, thành tỉnh Phú Thọ và tỉnh Vĩnh Phúc .
* * *
Dù ai đi ngược về xuôi,
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng Mười tháng Ba.
Ca dao cỗ
Ngọn núi Hùng xanh như một trái tim
Đập suốt bốn nghìn mùa xuân sinh nở…
Tiếng hát cỗ
Mở lối, đắp nền, bốn mặt non sông qui một mối
Lên cao nhìn rộng, nhìn trùng đồi núi tựa đàn con
Câu đối dịch từ chữ Hán ở Vòm Cổ-Đền Hùng
Vị trí , lảnh thổ, dân số
Phú Thọ là một tỉnh vùng Đông Bắc Việt Nam, nằm sát đỉnh tam giác tam giác hình thành đồng bằng châu thổ sông Hồng. Bắc giáp các tỉnh Yên Bái và Tuyên Quang , Đông giáp các tỉnh Vĩnh Phúc và Hà Tây, Nam giáp tỉnh Hòa Bình và Tây giáp tỉnh Sơn La. Diện tích tỉnh nhà là 3 528.1 km2 ( 1362.2 dặm Anh vuông ) giữa vĩ tuyến Bắc 210 20’ – 210 43’ và kinh tuyến Đông 104048- 105027. Thủ phủ tỉnh Phú Thọ nay là thành phố Việt Trì, chỉ cách vùng Tây Bắc của Hà Nội 50km và cách sân bay Nội Bài 80 km. Nhờ vị trí chiến lược này, Phú Thọ thường được gọi là “ Cửa Tây Hà Nội- West Gate of Ha Nội” . Vị trí này ở ngã ba, nơi hai sông Hồng và sông Đà gặp nhau và Phú Thọ cũng nối liền các tỉnh miền Bắc sông Hồng với các tỉnh trung du- thượng du Bắc Việt và với hai tỉnh Qủang Tây và Vân Nam, Trung Quốc. Phú Thọ nằm trong vùng ảnh hưởng của tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh , nên rất thuận lợi cho việc thông thương và phát triễn kinh tế tỉnh. Dân số tỉnh năm 1989 là 1102 600,năm 1999 là 1264 000 người, năm 2008 là 1 374 700 người, mỗi năm tăng thêm 11- 12 000 người. Như vậy năm 2012 ,có lẽ đã trên 1400 000. Phú Thọ là tỉnh đông dân thứ hai ở miền Đông Bắc , sau tỉnh Bắc Giang. Năm 1999, kết cấu dân số tỉnh là 104 nữ / 100 nam , tương đương với tòan quốc năm đó. Nhưng 85.8 % dân số sống ở nông thôn, cho thấy là mức đô thị hóa còn thấp. Năm 2012, dân sống ở nông thôn giảm bớt xuống ở mức 80 % tổng số dân , vẫn còn cao hơn dự trù và mức dân đô thị hóa chỉ đạt 20 % .Tộc dân Kinh đông nhất, sau đó là Mường, Dao và Sán Chay…
Hành chánh tỉnh ngày nay .
Năm 1903, tỉnh lỵ tỉnh Hưng Hóa cũ được chuyễn về Phú Thọ nên tỉnh Hưng Hóa cũ được gọi là tỉnh Phú Thọ. Địa bàn tỉnh Phú Thọ khi đó gồm : phủ Đoan Hùng, các huyện Tam Nông, Thanh Thủy, Sơn Vi, Thanh Ba, Phù Ninh, Cẩm Khê, Hạ Hòa , Hạc Trì và các châu Thanh Sơn, Yên Lập. Năm 1968, tỉnh Phú Thọ hợp với tỉnh Vĩnh Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú. Tháng 11 năm 1966, tỉnh Vĩnh Phú tách ra hai, thành tỉnh Phú Thọ và tỉnh Vĩnh Phúc .
Hiện nay tỉnh Phú Thọ gồm có 1 thành phố là Việt Trì, 1 thị xã là Phú Thọ và 11 huyện, 11 huyện lỵ và thị trấn huyện : Cẩm Khê ( huyện lỵ là Sông Thao), Đoan Hùng ( huyện lỵ là Đoan Hùng ), Hạ Hòa ( huyện lỵ là Hạ Hòa), Lâm Thao ( huyện lỵ là Lâm Thao và thị trấn huyện khác là Hùng Sơn) , Phù Ninh( huyện lỵ là Phong Châu) , Tam Nông( huyên lỵ là Hưng Hóa ), Tân Sơn ( chưa có thị trấn huyện lỵ ), Thanh Ba ( huyện lỵ là Thanh Ba ), Thanh Sơn ( huyện lỵ là Thanh Sơn ), Thanh Thủy ( huyện lỵ là Thanh Thủy ), Yên Lập ( huyện lỵ là Yên Lập). Thành phố Việt Trì gồm 13 phường – wards và 10 xã – communes . Thị xã Phú Thọ nay gồm 7 phường ( năm 1999 là 4 xã , 3 phường ). Tỉnh nhà nay có 275 xã. Đông dân nhất là thành phố Việt Trì; năm 2003 là 135 000 người, còn kém dân số huyện đông dân nhất tỉnh là Thanh Sơn 187 700, nhưng năm 2010, Việt Trì đã lên đến 260 288 người. Năm 2003, thủ phủ cũ là thị xã Phú Thọ chỉ có 63 300, tăng nhiều so với năm 1999 mới chỉ có 38 400 người.
Địa hình
Địa hình Phú Thọ khá đa dạng: núi thấp, đồi ,thung lũng … Miền núi thấp năm phía Bắc , phía Tây tỉnh, thuộc phạm vi các huyện Thanh Sơn, Yên Lập, Sông Thao, Hạ Hòa, Đoan Hùng. Núi cao nhất tỉnh là núi Voi 1387m , núi Tên 1244m, núi Cấn ( ? ) 1144m , cả ba đều ở c ông Viên Quốc gia Xuân Sơn , núi Lưỡi Hái 1058m phía tây Nam Việt Trì. Các núi khác thường không tới 1000m , như núi Đồng 929m ở biên giới phía Nam tỉnh Yên Bái và phía Tây tỉnh Phú Thọ, núi ở phía nguồn một nhánh sông Bứa phía Nam huyện Thanh Sơn cao 805m, núi ở nguồn một nhánh Sông Thao phía Nam huyện Yên Lập cao 879 m … . , thấp hơn núi Tam Đảo cao đến 1591m của tỉnh Vĩnh Phú và núi Tản Viên 1287m , và núi Ba Vì 1250m ( ? ), tỉnh Sơn Tây ( cũ ). Dạng địa hình đặc trưng nhất tỉnh Phú Thọ là các dãy đồi chạy lúp xúp. Các đồi này hình tròn, đỉnh đồi phẳng, sườn lồi dốc thỏai từ 5 đến 25 độ, trên bề mặt thường phủ một lớp đất đỏ. Độ cao trung bình các đồi Phú Thọ trung bình khoảng 20 -25m, thấp hơn trung bình các đồi miền Trung Du là từ 50 đến 500m. Các vùng đồi này đã được khai thác từ lâu kể các lòai cây họ cọ, họ dừa -palmacae: mật cật, ra, trụi, kè – Rhapis sp. , Licuala sp ., Livistonia sp ., một số dùng đan nón Phú Thọ ( nón sông Thao ?), đặc biệt ở các làng Sài Nga, Sơn Nga, Thanh Nga, Đông Khê …. Nón Sông Thao đơn giản, trắng ngần, giữ được lâu và cũng có lọai nón lá bài thơ giữa hai lớp lá mỏng như ở Huế ( Huế dùng lá buôn – latanier Corypha sp. ). Nón dùng vật liệu tương đương nón Sông Thao là nón làng Chương, tỉnh Hà Tây ( cũ ). Nay phần lớn các rừng Phú Thọ đã được các cây công nghiệp cỗ truyền như sơn, trẩu, sả và nhất là trà – chè thay thế . “ Rừng cọ , đồi chè” là biểu tượng của Phú Thọ. Kết hợp với dạng hình đồi là các thung lũng, con người khai thác làm lúa nước.
Đất đai
Đất đai vùng đồi núi là là đất feralit vàng và đỏ vàng- Ferralic Acrisols hình thành trên nền gốc đá phiến hay đá gơnai ( nai ) – gneiss có tuổi rất cổ. Vì lượng mưa tương đối lớn, lại có nhiều cơn mưa going, nên trong trường hợp thiếu lớp thực vật che phủ, quá trình rửa tràn trên mặt sẽ làm trôi hết lớp đất mặt, xuống tích tụ ở các thung lũng hẹp. Vì vậy đất thóai hóa, có phản ứng acid và tầng đất mỏng. Để bảo vệ đất, cần tạo một lớp thực vật rừng hay các phương thức trồng nhiều tầng cây không làm gỗ xen kẻ cây công nghệ lâu năm, với hoa màu hàng niên hay các đồng cỏ hòa bản hay họ đậu cải thiện chăn nuôi, che phủ các đồi trọ , ngăn cản tình trạng thóai hóa đất, cải thiện chế độ nước và khí hậu địa phương .
Thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ và các thị trấn nhỏ ven sông đều nằm trên các bực thềm sông. Các đồi ở đây có đất phù sa cổ nhóm feralit nâu vàng trên phù sa cổ, quá trình đầy đủ của đất feralit đỏ vàng nói trên, nhưng yếu hơn và cũng có kết von, đá ong. Đất nhẹ, tơi xốp, cấu trúc phẩu diện không đồng nhất, hàm lượng các dinh dưỡng thấp. Tuy có đá ong, kết von nhưng nhờ địa hình thấp, dễ tưới nước nên phần lớn đã được sử dụng trồng cây công nghiệp. Đất xám bạc màu trên phù sa cổ- Haplic Acrisols , hình thành gắn liền với canh tác lúa nước với quá trình rữa trôi và xói mòn. Phẩu diện thường loang lổ đỏ vàng, xen lẫn các ổ kao lin trắng. Đất nghèo dinh dưỡng, pH thấp. Màu mở nhất là dãi đất phù sa ven sông, nhưng diện tích không lớn .
Khí hậu
Phú Thọ nằm trong vùng gió mùa phụ nhiệt đới. Tuy ở vùng Đông Bắc, nhưng vì độ cao không lớn nên ngay trong mùa đông cũng không lạnh lắm. Nhiệt độ trung hình ghi chép hàng năm là 23.50C ( 74.30F ). Nhiệt độ cao nhất là 290C ( 840F ) vào tháng 7 ; nhiệt độ thấp nhất là 150C (590F) vào tháng 2. Mùa hè kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa đông từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau . Lượng mưa trung bình từ 1600 mm đến 1800mm tập trung vào 5 tháng , từ tháng 5 đến tháng chín . Ẩm độ cao trong thời gian gió mùa thổi từ tháng 5 đến tháng 10 trung bình 85% ; mùa khô ẩm độ trung bình là 80%. Số giờ nắng trong năm khá cao , 1300- 1400 giờ /năm. Chế độ ẩm – nhiệt giúp Phú Thọ tạo điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hóa nông nghiệp và gia tăng hệ số sử dụng đất.
Thủy văn
Sông Hồng, sông Lô và sông Đà , tổng số chiều dài 200km , là ba sống lớn chảy qua tỉnh Phú Thọ. Lưu vực 3 sông này là 5000 km2( 1900 dặm anh vuông ) . Lưu lượng mọi dòng sông chảy qua tỉnh ước lượng là 42 tỉ m3 hàng năm . Các dòng sông lớn tạo điều kiện cho Phú Thọ giao lưu bằng đường thủy với nhiều tỉnh miền núi , trung du phía Bắc và với đồng bằng sông Hồng. Sông Hồng chảy qua Lào Cai, Yên Bái , rồi vào đất Phú Thọ . Sông Đà chảy qua Lai Châu , Sơn La, Hòa Bình rồi tạo nên ranh giới tự nhiên giữa Phú Thọ và Hà Tây. Sông Lô chảy qua Hà Giang , Tuyên Quang rồi vào đất Phú Thọ tạo nên ranh giới tự nhiên giữa Phú Thọ và Vĩnh Phúc. Các dòng sông lớn này tụ hội ở Việt Trì – thành phố ngã ba sông – nơi có địa thế thậnlợi để trở thành một thành phố công nghiệp. Nước ngầm ở Phú Thọ có chất lượng khá tốt, lưu lượng trung bình ở đồng bằng là 40-50 m3/giờ và ở vùng đồi núi là 10 m3/giờ.
Tài nguyên sinh vật
Đến năm 2000, độ che phủ rừng tòan tỉnh là 35 % tập trung chủ yếu ở địa bàn các huyện Thanh Sơn, Yên Lập , Hạ Hòa, Đoan Hùng . Rừng tự nhiên chiếm 37% và rừng trồng chiếm 63% diện tích đất lâm nghiệp. Diện tích che phủ rừng tăng Mau trong nuNg năm đầu thế kỷ thứ 21. rừng chủ yếutự nhiên của Phú Thọ là rừng trung bhình và rừng nghèo kiệt . Trữ lượng gỗ thấp kém trong rừng còn một số động vật quí hiếm.
Danh lam thắng cảnh
Khu di tích Đền Hùng
Khu di tích Đền Hùng trước đây cách thành phố Việt Trì khỏang 10 km và cách Hà Nội khỏang 95 km, nguyên thuộc xã Hy Chương huyện Lâm Thao. Nhưng nay xã Hy Chương trực thuộc thành phố ViệtTrì dưới tên xã Hy Cuơng rồi phường Hy Cương ( ? ). Khu di tích này gồm có di tích ở núi Hy Cương hay núi Nghĩa Lĩnh ( còn có tên là Nghĩa Cương, Hùng Lĩnh, Hùng Sơn) cao 175m trên mặt biển ,gắn liền với truyền thuyết về 18 đời vua Hùng Vương, xây dựng nên nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu. Từ 4000 năm trước, những đồ vật thời đại đá mới và đồng thau năm rải rác trên triền núi, cho thấy, người xưa đã lui tới nơi này, thực hành tín ngưỡng Trời Đất và Nông Nghiệp. Những phế tích của nhiều kiến trúc cổ, niên đại Lý -Trần, chứng minh là nghìn năm trước, đền miếu đã xây dựng ở đây. Những di tích đang còn, có tuổi thời Lê – Nguyễn , gồm Vòm Cổng, Đền Hạ và Chùa , Đền Trung , Đền Thượng , Đền Giếng.
Vòm Cổng đồ sộ ở chân núi phía Tây dưới bóng những cây thông đại thụ, mang hai câu đối cổ đầy ý nghĩa mở đầu bài này. Đền Hạ và Chùa Thiền Quang nằm cao trên Vòm Cổng 225 bậc thềm. Trước mặt Đền Hạ là một cây đại thụ, tuổi đã 700 năm. Đây là nơi tương truyền mẹ Âu Cơ đã đặt cái bọc trăm trứng, cầu khẩn cho nở thành trăm người con trai tuấn tú, tổ tiên của người Việt khắp nơi. Cha Lạc Long Quân đem 50 người con xuống vùng bờ biển. Âu Cơ đem 49 người con lên vùng núi. Người con lớn nhất là Hùng Vương thiết lập nước Văn Lang và xây dựng kinh đô ở Phong Châu. Đền Trung nằm cao trên Đền Hạ 168 bậc thềm, là ngôi đền xây cất đầu tiên ở nước nhà trong hệ thống đền đài trên núi, nhằm ghi nhớ dấu tích nơi các vua Hùng đời xưa thường ngự bàn việc nước cùng các lạc hầu, lạc tướng và cũng là nơi Lang Liêu đã dâng bánh chưng , bánh dầy đầu tiên của dân tộc. Đền Thượng ở gần đỉnh núi, cách Đền Trung 102 bực thềm là nơi các vua Hùng làm lễ tế Trời – Đất, thờ thần lúa và vua Hùng thứ 6 lập đền thờ Thánh Dóng, sau khi thắng giặc Ân, một triều đại Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam. Mộ Tổ hay lăng Hùng Vương thứ 6 , một công trình tưởng niệm nằm gần đó. Tương truyền vua Hùng thứ 6, sau khi thắng giặc Ân xâm lăng cởi áo bào, treo ở một nhánh cây đại thụ kim giao Podocarpus sp. Ngay sau đó, vua Hùng cũng chết tại chỗ này. Đền Thượng cũng là nơi vua Hùng thứ 18 giao quốc gia cho Thục Phán, vị vua đã xây một cột đá tưởng niệm, thề sẽ duy trì Đền Hùng và thừa kế gia đình vua Hùng. Dưới chân núi phía Đông Nam là Đền Giếng , nơi thờ hai công chúa con gái vua Hùng thứ 18 Ngọc Hoa và Tiến Dũng, thường dùng nước Giếng Ngọc soi bóng nước và chải tóc. ( phần lớn khu di tích Đền Hùng là chiếu theo nhà sử học Lê văn Lan, Tổng hợpVăn Hóa Việt Nam 1989 – 1995 )
Lễ hội truyền thống : Hội Đền Hùng
Trong số lễ hội truyền thống đáng kể ở Bắc Việt : hội Dóng, Hội Lim, Hội Ó, Hội Liễu Đôi, Hội Lồng Tồng- Xuống Đồng… ) Hội Đền Hùng là hội muôn đời, muôn người Việt Nam, dù làm ăn ở đâu đi nữa, nhưng mỗi độ xuân về, ai ai nhớ đến cội nguồn dân tộc cũng hướng lòng mình về một vùng đất Tổ. Từ các làng xung quanh núi Nghĩa Lĩnh, ngày mở hội đã được tổ chức từ Tết với nhiều tiết mục văn hóa phong phú. . Hột kéo dài từ mồng 8 đến ngày 11 tháng ba âm lịch, nhưng ngày mồng 10 tháng ba được coi là ngày hội lớn nhất, ngày hội tụ và kết thúc một mùa hội xuân của vùng này. Hôm đó ở Đền Thượng diễn ra một cuộc tế lễ trang trong nhắc đến 18 đời Hùng Vương xây dựng nước Văn Lang, tiền thân của Việt Nam ngày nay. Chủ tế luôn luôn là một đại diện cao cấp chánh quyền. Nhiều cuộc rước lớn của các làng xung quanh hướng về đền: rước voi, rước cỗ chay, rước bánh chưng, bánh dày, rước kiệu. Đặc biệt là rước bánh chưng, bánh dày một mặt để nhắc lại sự tích Lang Liêu, mặt khác để nhớ công đức các vua Hùng đã dạy dân trồng lúa nước. Đó là cuộc rướcc không bao giờ được thiếu vì là đặc điểm của hội Đền Hùng. Còn rước kiệu từ lâu đã trở thành một cuộc thi của các làng. Những năm hội lớn có tới 7 làng tham gia , có làng rước tới hai ba kiệu . Đám rước kiệu gồm 100 thanh niên nam – nữ, y phục cổ truyền tượng trưng cho “ Con cháu Rồng- Tiên” lần lượt tiến về sân Đền Hạ. Tại đây trên khỏang sân rộng và bằng phẳng, các cổ kiệu cùng cờ quạt … đồng lọat rước chạy vòng quanh sân, cho nên còn được gọi là kiệu bay. Tiếp theo lễ rước kiệu là trình diễn “Hát Xoan” tiếng hát Kinh dân gian đồng bằng sông Hồng tỉnh Vĩnh Phúc rải rác vang lên ở Đền Thượng với các phường xoan nổi danh như Kim Đức , Đức Bác. Còn ở Đền Hạ là các kịch nghệ thuật “Ca Trù”cổ điễn. Việt sử Thông Giám Cương Mục chép rằng năm 1025, vua Lý Thái Tổ chánh thức đặt chức quân giáp để quản lý các giáo phường và tuyễn đào kép ca trù vào cung lập ra Ban Nữ Nhạc . “ Ca” là hát, gồm cả đàn, phách và các nhạc cụ khác kèm theo. “ Trù” là trò vui, biến âm của tiếng trò ( động Thiên Trù là động Trò, làng Phương Trù là làng Trò… ), gồm các tiết mục múa, nhào lộn, kéo co cách điệu, hề ( vai Thày Bèo ) … Ca trù phát triễn rất nhanh ở các vương triều Lý -Trần- Lê. Trong dân gian, nhất là ở các nông thôn, ca trù cũng phát triễn rất cao. Ca trù được dùng chánh thức để tế thần, ca ngợi Thành hòang làng, chúc phúc cho dân làng và khuyến khích việc học hành, canh cửi. Hội làng mở vào mùa xuân , đánh đu, đánh vật, bơi chải, thả chim … không thể thiếu tiếng hát ca trù nơi của đình. Theo Dương Quảng Hàm, ca trù là một lối hát nói có văn chương lý thú nhất, nhiều bài có thể coi là những áng kiệt tác trong văn Nôm ta. Như những bài ca trù: Vịnh Tiền Xích Bích của Nguyễn Công Trứ, Hương Sơn phong cảnh của Chu Mạnh Trinh, Đào Hồng – Đào Tuyết của Dương Khuê, Chơi Hồ Tây của Nguyễn Khuyến. Các năm 1973 và 1978, hội đồng sưu tầm âm nhạc truyền thống của Tổ chức Văn hóa và Giáo dục Quốc tế- UNESCO đã trao giải thưởng lớn nhất cho tiếng hát ca trù qua giọng hát của lảo nghệ sĩ Quách thị Hồ.
Ngòai ra lễ hội còn có tiếng nhạc “ đâm đuống” (là giã gạo chày tay của nhiều người trên một máng gỗ dài) của các cô gái Mường âm thanh đều đều vang dội vào núi rừng ngày hội. Tiếng “ chàm thau”( đánh trống đồng ) cũng hùng tráng nổi lên lan tỏa khắp không gian. Bên hồ Đa Vao, cạnh chân núi Nghĩa Lĩnh, những cặp thuyền rồng được trang trí lộng lẫy, đua nhau lướt sóng. Trên bờ là bải tung thu hút biết bao đôi trai gái. Cây đu tiên quay tròn làm tung bay những tà áo dài thướt tha…
Phú Thọ còn có nhiều lễ hội tiêu biểu khác: hội Bạch Hạc, hội Chu Hóa, hội Phết Hiền Quang, cũng như nhiều di tích như chùa Xuân Lũng, chùa Phúc Thánh vv…
Công viên quốc gia Xuân Sơn
Thiết lập tháng hai năm 2002, cách thành phố Việt Trì chừng 80 Km. Công viên chiếm 15 048 ha, hơn 11 000 ha là rừng tự nhiên và 1396 ha là rừng núi đá vôi. Đã kiểm kê được 465 lòai cây thực vật cấp cao, 282 lòai động vật, gồm 23 lòai lưỡng cư, 30 lòai bò sát, 168 lòai chim và 61 lòai động vật có vú. Các lòai vật hiếm có như gấu Tây Tạng – tibetian bears , báo săn – cheetah, trĩ trắng –white pheasants , vượn xám- gray gibbons và rắn hổ mang bành ( đeo kính )- cobras thường gặp tại công viên. Xuân Sơn cũng còn có nhiều hang động đẹp đẽ, có khi chạy dài 7 – 8 km bên trong các núi Voi, núi Tên, núi Cấn ( ? ), chứa rất nhiều lòai dơi, chưa khai thác du lịch.
Khu đầm Ao Châu
Khu đầm Ao Châu ( Châu Ngọc) cũng núi Thắm, các hang động đá vôi Xuân Sơn… là những thắng cảnh tự nhiên, Phú Thọ cần khai thác mau lẹ hơn đón mời thêm du khách . Khu đầm Ao Châu, thuộc xã Ấm Thượng huyện Hà Hòa có diện tích trên 260 ha mặt nước với 99 ngách, đan xen những khu rừng và các đồi cây ăn trái ( ăn quả ). Đầm có hình dạng đặc biệt, trông giống như đầu trâu với hai sừng chõai về hai phía sông Thao và sông Chảy. Nơi đây không khí trong lành, cảnh đẹp nên thơ, gắn liền nhiều truyền thuyết thời Hùng Vương dựng nước.
Sẽ tiếp theo Phần II: Lạm bàn phát triễn Phú Thọ
( Irvine, Nam Ca Li- Hoa Kỳ, ngày 6 tháng 12 năm 2012 )